Love stories
“Love stories” are often associated – at least in the popular imagination – with fairy tales, adolescent daydreams, Disney movies and other frivolous pastimes. For psychologists developing taxonomies of affection and attachment, however, this is an area of rigorous academic pursuit. Beginning in the early 1970s with the groundbreaking contributions of John Alan Lee, researchers have developed classifications that they believe better characterise our romantic predispositions. This involves examining not a single, universal, emotional expression (“love”), but rather a series of divergent behaviours and narratives that each has an individualised purpose, desired outcome and state of mind. Lee’s gritty methodology painstakingly involved participants matching 170 typical romantic encounters (e.g., “The night after I met X…”) with nearly 1500 possible reactions (“I could hardly get to sleep” or “I wrote X a letter”). The patterns unknowingly expressed by respondents culminated in a taxonomy of six distinct love “styles” that continue to inform research in the area forty years later. ĐOẠN 1
"Những câu chuyện tình yêu" thường được liên tưởng - ít nhất là trong đa số trí tưởng tượng - với những câu chuyện cổ tích, những giấc mơ thời niên thiếu, những bộ phim Disney và những trò tiêu khiển phù phiếm khác. Tuy nhiên, đối với các nhà tâm lý học đang phát triển các nguyên tắc phân loại về tình cảm và sự gắn bó, đây là một lĩnh vực nghiên cứu học thuật nghiêm ngặt. Bắt đầu từ đầu những năm 1970 với những đóng góp đột phá của John Alan Lee, các nhà nghiên cứu đã phát triển các phân loại mà họ tin rằng sẽ mô tả rõ hơn khuynh hướng lãng mạn của chúng ta. Việc này liên quan đến việc xem xét không phải một biểu hiện cảm xúc ("tình yêu") riêng lẻ, phổ quát, mà là một loạt các hành vi và câu chuyện khác nhau mà mỗi hành vi và câu chuyện đều có một mục đích cá nhân, một kết quả mong muốn và một trạng thái tinh thần. Phương pháp táo bạo của Lee liên quan đến những người tham gia ghép nối một cách cẩn thận 170 cuộc gặp gỡ lãng mạn điển hình (ví dụ: “Đêm sau khi tôi gặp X…”) với gần 1500 phản ứng có thể xảy ra (“Tôi khó ngủ được” hoặc “Tôi đã viết cho X một lá thư”). Những khuôn mẫu mà những người được hỏi vô tình thể hiện đã dẫn đến sự phân loại sáu “phong cách” tình yêu riêng biệt vẫn tiếp tục cung cấp thông tin cho các nghiên cứu trong lĩnh vực này bốn mươi năm sau đó.
The first of these styles – eros – is closely tied in with images of romantic love that are promulgated in Western popular culture. Characteristic of this style is a passionate emotional intensity, a strong physical magnetism – as if the two partners were literally being “pulled” together – and a sense of inevitability about the relationship. A related but more frantic style of love called mania involves an obsessive, compulsive attitude toward one’s partner. Vast swings in mood from ecstasy to agony – dependent on the level of attention a person is receiving from his or her partner – are typical of manic love. ĐOẠN 2
Phong cách đầu tiên trong số này - thần ái tình - gắn liền với những hình ảnh về tình yêu lãng mạn phổ biến trong văn hóa đại chúng phương Tây. Đặc điểm của phong cách này là cường độ cảm xúc nồng nàn, sức hút thể chất mạnh mẽ - như thể hai bên bị "kéo" lại với nhau theo đúng nghĩa đen - và cảm giác chắc chắn sẽ tốt đẹp về mối quan hệ. Một phong cách tình yêu gần giống nhưng điên cuồng hơn được gọi là hưng cảm liên quan đến thái độ ám ảnh, cưỡng bức đối với đối phương của một người. Tâm trạng thay đổi thất thường từ ngây ngất đến đau đớn - phụ thuộc vào mức độ quan tâm mà một người nhận được từ đối phương của mình - là điển hình của tình yêu hưng cảm.
Two styles were much more subdued, however. Storge is a quiet, companionate type of loving – “love by evolution” rather than “love by revolution”, according to some theorists. Relationships built on a foundation of platonic affection and caring are archetypal of storge. When care is extended to a sacrificial level of doting, however, it becomes another style – agape. In an agape relationship one partner becomes a “caretaker”, exalting the welfare of the other above his or her own needs. ĐOẠN 3
Tuy nhiên, có hai phong cách nhẹ nhàng hơn nhiều. Theo một số nhà lý thuyết, Storge là một kiểu tình yêu thầm lặng, đồng hành - "tình yêu theo sự phát triển dần dần" chứ không phải "tình yêu theo kiểu mang tính cách mạng". Các mối quan hệ được xây dựng trên nền tảng của tình cảm thuần khiết và sự quan tâm là điển hình nhất của Storge. Tuy nhiên, khi sự quan tâm được mở rộng đến mức độ yêu đương hi sinh, nó sẽ trở thành một phong cách khác - agape. Trong mối quan hệ agape, một đối phương trở thành “người chăm sóc”, đề cao lợi ích của người kia lên trên nhu cầu của chính họ.
doting: extremely and uncritically fond of someone; adoring. yêu mê mẩn, say mê, mê như điếu đổ
The final two styles of love seem to lack aspects of emotion and reciprocity altogether. The ludus style envisions relationships primarily as a game in which it is best to “play the field” or experience a diverse set of partners over time. Mutually-gratifying outcomes in relationships are not considered necessary, and deception of a partner and lack of disclosure about one’s activities are also typical. While Lee found that college students in his study overwhelmingly disagreed with the tenets of this style, substantial numbers of them acted in a typically ludic style while dating, a finding that proves correct the deceit inherent in ludus. Pragma lovers also downplayed emotive aspects of relationships but favoured practical, sensible connections. Successful arranged marriages are a great example of pragma, in that the couple decides to make the relationship work; but anyone who seeks an ideal partner with a shopping list of necessary attributes (high salary, same religion, etc.) fits the classification. ĐOẠN 4
Hai phong cách tình yêu cuối cùng dường như hoàn toàn thiếu các khía cạnh của cảm xúc và sự tương trợ. Phong cách ludus mô tả các mối quan hệ chủ yếu như một trò chơi trong đó tốt nhất là “chơi qua đường” hoặc trải nghiệm một nhóm người yêu khác nhau theo thời gian. Kết quả làm hài lòng cả hai bên trong các mối quan hệ không được coi là cần thiết, và việc lừa dối người yêu và thiếu công khai về các hoạt động của một người cũng rất là điển hình. Trong khi Lee phát hiện ra rằng các sinh viên đại học trong nghiên cứu của anh ấy hoàn toàn không đồng ý với các nguyên lý của phong cách này, thì một số lượng lớn trong số họ đã hành động theo phong cách vui vẻ điển hình khi hẹn hò, một phát hiện chứng minh sự lừa dối cố hữu trong ludus là đúng. Những người yêu nhau thực dụng cũng xem nhẹ khía cạnh cảm xúc của các mối quan hệ mà ưa chuộng những mối quan hệ thực tế, hợp lý. Các cuộc hôn nhân sắp đặt thành công là một ví dụ tuyệt vời về tình yêu thực dụng, trong đó cặp đôi quyết định làm cho mối quan hệ diễn ra; nhưng bất kỳ ai tìm kiếm một người yêu lý tưởng với danh sách mua sắm gồm các đặc điểm cần thiết (lương cao, cùng tôn giáo, v.v.) phù hợp với phân loại này.
play the field: indulge in a series of sexual relationships without committing oneself to anyon
downplay: make (something) appear less important than it really is.
1. Mua bộ đề gần 400 bài ielts reading - Dịch và giải chi tiết Chỉ 199k bao gồm toàn bộ đề trong bộ Cambridge ( từ bộ 1 -19) và nhiều đề thi thực tế ( xem danh sách 400 đề ielts reading tại đây). Xem bài mẫu tại đây, Bài mẫu 1, bài mẫu 2, bài mẫu 3. Giải đề bao gồm phần dịch bài đọc, dịch phần câu hỏi, giải thích chi tiết, có thể tải về, in phần đề để luyện tập ( chỉ có thể tải, in phần đề để luyện tập, phần giải chi tiết và dịch chỉ xem online).
>>>>>>>>>>> Đặc biệt tặng kèm Dịch và giải chi tiết bộ đề Ielts listening từ Cam 10-18 và tặng kèm hơn 300 đề Ielts thực tế ( không có lời giải chi tiết chỉ có đề và đáp án) ( khác với bộ 400 đề ở trên). Vui lòng điền thông tin theo form tại đây và thanh toán theo thông tin CK trong form.
2. Mua bộ đề Ielts listening từ Cam 10-18 - Dịch và giải chi tiết Chỉ 99k bao gồm phần dịch transcript, dịch câu hỏi, giải đề. Xem bài mẫu tại đây. Để mua bộ đề Vui lòng điền thông tin theo form tại đây và thanh toán theo thông tin CK trong form.
3. Dành tặng 100 bạn hoàn thành buổi học thử miễn phí khóa học Ielts Speaking online 1 kèm 1, các bạn sẽ được tặng bộ đề 400k bài Ielts reading và bộ đề Ielts Listening bộ Cam từ 10-18 gồm bài dịch và giải chi tiết, giải thích từ vựng khó ( thời hạn sử dụng trong vòng 2 tháng). Xem thông tin khóa học Ielts Speaking online 1 kèm 1 và đăng ký học thử tại đây.
Robert J. Sternberg’s contemporary research on love stories has elaborated on how these narratives determine the shape of our relationships and our lives. Sternberg and others have proposed and tested the theory of love as a story, “whereby the interaction of our personal attributes with the environment – which we in part create – leads to the development of stories about love that we then seek to fulfill, to the extent possible, in our lives.” Sternberg’s taxonomy of love stories numbers far more, at twenty-six, than Lee’s taxonomy of love styles, but as Sternberg himself admits there is plenty of overlap. The seventh story, Game, coincides with ludus, for example, while the nineteenth story, Sacrifice, fits neatly on top of agape. ĐOẠN 5
Nghiên cứu cùng thời của Robert J. Sternberg về những câu chuyện tình yêu đã giải thích chi tiết về cách những câu chuyện này quyết định hình dạng của các mối quan hệ và cuộc sống của chúng ta. Sternberg và những người khác đã đề xuất và thử nghiệm lý thuyết về tình yêu như một câu chuyện, “theo đó, sự tương tác giữa các đặc tính cá nhân của chúng ta với môi trường - mà chúng ta một phần tạo ra - dẫn đến sự phát triển của những câu chuyện về tình yêu mà sau đó chúng ta tìm cách thực hiện tốt nhất có thể trong cuộc sống của chúng ta. Bảng phân loại các câu chuyện tình yêu của Sternberg nhiều hơn nhiều, ở mức 26, so với bảng phân loại các phong cách tình yêu của Lee, nhưng như chính Sternberg thừa nhận, có rất nhiều điểm trùng lặp. Ví dụ, câu chuyện thứ bảy, Trò chơi, trùng khớp với ludus, trong khi câu chuyện thứ mười chín, Sự hy sinh, hoàn toàn trùng với agape.
It is often used to indicate that someone will attempt to do something as much as possible given the circumstances. For example: "We plan to achieve our goals to the extent possible given our limited resources."
Sternberg’s research demonstrates that we may have predilections toward multiple love stories, each represented in a mental hierarchy and varying in weight in terms of their personal significance. This explains the frustration many of us experience when comparing potential partners. One person often fulfils some expected narratives – such as a need for mystery and fantasy – while lacking the ability to meet the demands of others (which may lie in direct contradiction). It is also the case that stories have varying abilities to adapt to a given cultural milieu and its respective demands. Love stories are, therefore, interactive and adaptive phenomena in our lives rather than rigid prescriptions. ĐOẠN 6
Nghiên cứu của Sternberg chứng minh rằng chúng ta có thể có sự yêu thích riêng đối với nhiều câu chuyện tình yêu, mỗi câu chuyện được thể hiện trong một hệ thống phân cấp tinh thần và có tầm ảnh hưởng khác nhau về mặt ý nghĩa cá nhân. Điều này giải thích sự thất vọng mà nhiều người trong chúng ta gặp phải khi so sánh những người có thể là người yêu. Một người thường đáp ứng một số câu chuyện được mong đợi - chẳng hạn như nhu cầu về sự bí ẩn và kỳ ảo - trong khi thiếu khả năng đáp ứng yêu cầu của người khác (điều này có thể nằm trong sự mâu thuẫn trực tiếp). Cũng có trường hợp là các câu chuyện có những khả năng thích ứng khác nhau với một môi trường văn hóa nhất định và những yêu cầu tương ứng của nền văn hóa đó. Do đó, những câu chuyện tình yêu là hiện tượng tương tác và thích ứng trong cuộc sống của chúng ta chứ không phải là những quy định cứng nhắc.
Steinberg also explores how our love stories interact with the love stories of our partners. What happens when someone who sees love as art collides with someone who sees love as a business? Can a Sewing story (love is what you make it) co-exist with a Theatre story (love is a script with predictable acts, scenes and lines)? Certainly, it is clear that we look for partners with love stories that complement and are compatible with our own narratives. But they do not have to be an identical match. Someone who sees love as mystery and art, for example, might locate that mystery better in a partner who views love through a lens of business and humour. Not all love stories, however, are equally well predisposed to relationship longevity; stories that view love as a game, as a kind of surveillance or as addiction are all unlikely to prove durable. ĐOẠN 7
Steinberg cũng khám phá cách những câu chuyện tình yêu của chúng ta tương tác với những câu chuyện tình yêu của những người bạn đời của chúng ta. Điều gì sẽ xảy ra khi một người coi tình yêu là nghệ thuật va chạm với một người coi tình yêu là một công việc kinh doanh? Liệu một câu chuyện May vá (tình yêu là những gì bạn tạo ra nó) có thể cùng tồn tại với một câu chuyện Sân khấu (tình yêu là một kịch bản với các hành động, cảnh và lời thoại có thể đoán trước được)? Chắc chắn, rõ ràng là chúng ta đang tìm kiếm những người bạn đời có câu chuyện tình yêu bổ sung và tương thích với câu chuyện của chính chúng ta. Nhưng chúng không phải là một sự ghép đôi hoàn toàn khớp nhau. Ví dụ, một người coi tình yêu là bí ẩn và nghệ thuật, có thể tìm thấy bí ẩn đó tốt hơn ở một người yêu nhìn tình yêu qua lăng kính kinh doanh và hài hước. Tuy nhiên, không phải tất cả các câu chuyện tình yêu đều có xu hướng kéo dài sự bền vững của mối quan hệ; những câu chuyện coi tình yêu như một trò chơi, như một kiểu giám sát hay say mê đều khó có thể chứng minh được lâu bền.
Research on love stories continues apace. Defying the myth that rigorous science and the romantic persuasions of ordinary people are incompatible, this research demonstrates that good psychology can clarify and comment on the way we give affection and form attachments. ĐOẠN 8
Nghiên cứu về những câu chuyện tình yêu vẫn tiếp tục. Bất chấp giai thoại rằng khoa học nghiêm ngặt và niềm tin lãng mạn của người bình thường là không tương thích, nghiên cứu này chứng minh rằng hệ tâm lý học đúng đắn có thể làm sáng tỏ và diễn giải về cách chúng ta thể hiện tình cảm và hình thành sự gắn bó.
—————
2 Taxonomy = the science of classifying and categorising data.
>>>> Xem thêm:
♦ Tổng hợp câu trả lời, câu hỏi, từ vựng của hơn 70 chủ đề Ielts Speaking part 1
♦ Tổng hợp gần 400 đề thi Ielts reading ( bao gồm dịch, giải chi tiết, từ vựng)
Questions 27-34
Look at the following statements (Questions 27–34) and the list of styles in the box below.
Match each statement with the correct term, A–F.
Write the correct letter, A–F, in boxes 27–34 on your answer sheet.
NB You may use any letter more than once.
27 My most important concern is that my partner is happy.
28 I enjoy having many romantic partners.
29 I feel that my partner and I were always going to end up together.
30 I want to be friends first and then let romance develop later.
31 I always feel either very excited or absolutely miserable about my relationship.
32 I prefer to keep many aspects of my love life to myself.
33 When I am in love, that is all I can think about.
34 I know before I meet someone what qualities I need in a partner.
List of Love Styles
A Eros
B Mania
C Storge
D Agape
E Ludus
F Pragma
Questions 35–40
Do the following statements agree with the claims of the writer in Reading Passage 3?
In boxes 35–40 on your answer sheet, write
YES if the statement agrees with the claims of the writer
NO if the statement contradicts the claims of the writer
NOT GIVEN if it is impossible to say what the writer thinks about this
35. People’s notions of love affect their relationships, rather than vice versa.
36. Some of our love stories are more important to us than others.
37. Our love stories can change to meet the needs of particular social environments.
38. We look for romantic partners with a love story just like our own.
39. The most successful partners have matching love stories.
40. No love story is more suited to a long relationship than any other.
1. Mua bộ đề gần 400 bài ielts reading - Dịch và giải chi tiết Chỉ 199k bao gồm toàn bộ đề trong bộ Cambridge ( từ bộ 1 -19) và nhiều đề thi thực tế ( xem danh sách 400 đề ielts reading tại đây). Xem bài mẫu tại đây, Bài mẫu 1, bài mẫu 2, bài mẫu 3. Giải đề bao gồm phần dịch bài đọc, dịch phần câu hỏi, giải thích chi tiết, có thể tải về, in phần đề để luyện tập ( chỉ có thể tải, in phần đề để luyện tập, phần giải chi tiết và dịch chỉ xem online).
>>>>>>>>>>> Đặc biệt tặng kèm Dịch và giải chi tiết bộ đề Ielts listening từ Cam 10-18 và tặng kèm hơn 300 đề Ielts thực tế ( không có lời giải chi tiết chỉ có đề và đáp án) ( khác với bộ 400 đề ở trên). Vui lòng điền thông tin theo form tại đây và thanh toán theo thông tin CK trong form.
2. Mua bộ đề Ielts listening từ Cam 10-18 - Dịch và giải chi tiết Chỉ 99k bao gồm phần dịch transcript, dịch câu hỏi, giải đề. Xem bài mẫu tại đây. Để mua bộ đề Vui lòng điền thông tin theo form tại đây và thanh toán theo thông tin CK trong form.
3. Dành tặng 100 bạn hoàn thành buổi học thử miễn phí khóa học Ielts Speaking online 1 kèm 1, các bạn sẽ được tặng bộ đề 400k bài Ielts reading và bộ đề Ielts Listening bộ Cam từ 10-18 gồm bài dịch và giải chi tiết, giải thích từ vựng khó ( thời hạn sử dụng trong vòng 2 tháng). Xem thông tin khóa học Ielts Speaking online 1 kèm 1 và đăng ký học thử tại đây.
Video giải chi tiết đề Ielts reading: Love Stories
LIKE, SHARE VIDEO và SUBSCRIBE KÊNH YOUTUBE để xem thêm nhiều đề Ielts giải chi tiết trong DỰ ÁN GIẢI CHI TIẾT 350 ĐỀ IELTS READING
https://www.youtube.com/@StudyIeltswithCherryMimi/videos
ĐÁP ÁN
27. D
28. E
29. A
30. C
31. B
32. E
33. B
34. F
35. YES
36. YES
37. YES
38. NO
39. NOT GIVEN
40. NO